Lịch sử cổ đại như một thuật ngữ đề cập đến tổng hợp các sự kiện trong quá khứ [1] từ khi bắt đầu viết và ghi lại lịch sử loài người và kéo dài đến tận lịch sử hậu cổ điển. Cụm từ có thể được sử dụng hoặc để chỉ khoảng thời gian hoặc kỷ luật học tập.
Khoảng thời gian của lịch sử được ghi lại là khoảng 5.000 năm, bắt đầu bằng chữ viết hình nêm của người Sumer, với các văn bản mạch lạc lâu đời nhất từ khoảng 2600 trước Công nguyên. [2] Lịch sử cổ đại bao trùm tất cả các lục địa có người ở trong giai đoạn 3000 trước Công nguyên - năm 500 sau Công nguyên.
Thuật ngữ rộng "lịch sử cổ đại" không bị nhầm lẫn với "thời cổ đại". Thuật ngữ cổ xưa thường được sử dụng để chỉ lịch sử phương Tây ở Địa Trung Hải cổ đại từ khi bắt đầu lịch sử Hy Lạp được ghi nhận vào năm 776 trước Công nguyên (Olympic đầu tiên). Điều này gần như trùng với ngày truyền thống thành lập Rome vào năm 753 trước Công nguyên, khởi đầu lịch sử của La Mã cổ đại và bắt đầu thời kỳ Arch cổ ở Hy Lạp cổ đại.
Thuật ngữ học thuật "lịch sử" không bị nhầm lẫn với các tài liệu tham khảo thông tục về thời gian đã qua. Lịch sử về cơ bản là nghiên cứu về quá khứ, và có thể là khoa học (khảo cổ học) hoặc nhân văn (lịch sử thông qua ngôn ngữ).
Mặc dù ngày kết thúc của lịch sử cổ đại bị tranh cãi, một số học giả phương Tây sử dụng sự sụp đổ của Đế chế La Mã phương Tây vào năm 476 sau Công nguyên (được sử dụng nhiều nhất), [3] [4] việc đóng cửa Học viện Platonic vào năm 529 sau Công nguyên, [5] cái chết của hoàng đế Justinian I vào năm 565 sau Công nguyên, [6] sự xuất hiện của đạo Hồi, [7] hay sự trỗi dậy của Charlemagne [8] là sự kết thúc của lịch sử cổ điển và cổ điển châu Âu. Bên ngoài châu Âu, khung thời gian 450 trên 500 cho đến cuối thời cổ đại đã gặp khó khăn khi ngày chuyển từ thời cổ đại sang thời hậu cổ điển.
Trong khoảng thời gian của lịch sử cổ đại (bắt đầu từ năm 3000 trước Công nguyên), dân số thế giới đã tăng theo cấp số nhân do cuộc Cách mạng Đá mới, đang diễn ra đầy đủ. Theo ước tính của HYDE từ Hà Lan, dân số thế giới tăng theo cấp số nhân trong giai đoạn này. Vào năm 10.000 trước Công nguyên thời tiền sử, dân số thế giới đã đứng ở mức 2 triệu, tăng lên 45 triệu vào khoảng 3.000 trước Công nguyên. Vào thời kỳ đồ sắt phát triển vào năm 1.000 trước Công nguyên, dân số đã tăng lên 72 triệu. Vào cuối giai đoạn 500 sau Công nguyên, dân số thế giới được cho là đứng ở mức 209 triệu. Trong 3.500 năm, dân số thế giới đã tăng gấp 100 lần. [9]