Vale of Newlands xanh tươi trong ánh nắng ban mai; con sông chảy qua tầng thấp nhất của nó lấp lánh màu tím và hổ phách; những chiếc lá khẽ rung rinh trong làn gió nhẹ thổi qua làn gió vội vã và đám cỏ dài; những ngọn đồi nổi lên trắng xóa đến hồ nước trong xanh phẳng lặng của bầu trời, nơi chỉ có một đám mây lất phất lơ lửng từ đỉnh này sang đỉnh khác. Từ những nơi không thể nhìn thấy được là tiếng cừu chảy máu và tiếng ầm ầm của bệnh đục thủy tinh thể ở xa, và phía trên tiếng nước chảy ầm ầm phía xa là tiếng chim kêu nhẹ trên đầu.
Nhưng không khí vẫn sống động với những âm thanh ngọt ngào hơn. Trên bầu vú của chiếc ngã nằm đối diện với Cat Bell, một đám rước trẻ em đi dạo, hát hò, huyên thuyên và cười đùa. Đó là Ngày của Thánh Peter, và họ đã vội vã mang theo; những đứa trẻ ở mọi lứa tuổi, từ một cô bé mười bốn tuổi hài hước, vừa mới chín muồi thành thiếu nữ, người bước đi cuối cùng, đến cậu bé bốn tuổi ngọt ngào trong cánh rừng bện với những chú tiểu, những người sải bước một cách dũng cảm ở phía trước. Hầu hết những bàn tay nhỏ bé đều mang cói, nhưng một số lại cắm đầy dương xỉ, rêu và hoa. Họ đã tập hợp tại ngôi trường, và bây giờ, trên đường đến nhà thờ, họ đang thực hiện vòng quay của sân khấu.
Họ băng qua con đường băng qua sông ở đầu Newlands, và rẽ xuống con đường men theo lòng thung lũng. Ở góc đó, có một nhóm nhỏ ngôi nhà nhỏ xinh đẹp mát mẻ trong lớp sơn quét vôi trắng của chúng, nép mình bên nhau dưới rặng núi cheo leo màu tím nặng từ đó nước của một con sền sệt đổ vào một cái vực sâu đến tận tường của chúng. Ngôi nhà cuối cùng của nhóm là một ngôi nhà nhỏ nằm cuối con đường, và hiên nhà mở hướng ra khu vườn hình nêm. Khi lũ trẻ đi ngang qua ngôi nhà này, một ông già, xám xịt, gầy gò và cong nhiều, đứng bên cổng, tay chống gậy. Một con chó đực, với thanh gỗ dành cho chó cừu treo lơ lửng trên chiếc cổ xù xì, nằm dưới chân anh ta. Tiếng vo ve đưa một thiếu nữ bước vào hiên nhà. Cô ấy để trần và mặc một chiếc váy in nhẹ. Khuôn mặt cô nhợt nhạt và nổi rõ những đường nét. Cô bước đi một cách thận trọng, đưa một tay ra trước với chuyển động không chắc chắn, và nắm lấy một tua hoa kim ngân kéo dài từ mái nhà xuống. Đôi mắt cô ấy, một phần hướng lên trên và một phần hướng về phía đám rước, có một tia sáng mơ hồ trong đôi đồng tử đã tẩy trắng của họ. Cô ấy đã bị mù. Ở bên cạnh cô ấy, và đang giật mình với cô ấy, là một đứa trẻ khoảng một tuổi rưỡi - một cậu bé mũm mĩm, tỏa nắng với đôi má hồng hào, đôi mắt xanh và mái tóc xoăn bồng bềnh. Tấn công, cười, hát cướp, và vẫy những cây dương xỉ của chúng trên cái đầu vui vẻ, không suy nghĩ của chúng, những đứa trẻ chạy vụt qua. Khi họ đi, không khí trống rỗng, cũng như khi chim sơn ca dừng lại trong bài hát của nó.
Sau khi đoàn rước lũ trẻ đi qua ngôi nhà tranh nhỏ ở góc đường, ông già chống gậy ở cổng quay lại bước ra hiên.
"Cậu bé có nhìn thấy họ không? - cậu ta có nhìn thấy bọn trẻ không?" Người phụ nữ trẻ bế đứa trẻ trên tay nói.
"Tôi mak 'na doot," ông già nói.
Anh khom người về phía đứa nhỏ và chìa một ngón tay dài đã khô héo. Bàn tay em bé mềm mại khép lại ngay lập tức.
"Anh ấy có cười không? Tôi tưởng anh ấy đã cười," cô gái trẻ nói.
Một nụ cười rạng rỡ nở trên môi cô.
"Có lẽ vậy, lass."
"Ralphie chưa bao giờ nhìn thấy bọn trẻ trước đây, thưa cha. Trông anh ta không sợ hãi - chỉ hơi sợ một chút - lúc đầu, bạn biết không? Tôi nghĩ anh ta rón rén sau áo choàng của tôi."
"Có thể, có thể."